Theo Cục Xuất nhập khẩu làn sóng dịch COVID-19 bùng phát lần thứ 4 khiến hoạt động sản xuất bị ngưng trệ do lệnh giãn cách tại nhiều tỉnh thành trên cả nước. Điều này đã đã ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của ngành chè. Xuất khẩu chè trong tháng 8/2021 ước tính giảm mạnh cả về lượng và trị giá, mặc dù giá chè xuất khẩu bình quân tăng.
Đây là tháng thứ ba liên tiếp xuất khẩu chè giảm cả về lượng và trị giá, do diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 trong nước.
Tính chung trong 8 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu chè ước đạt 80.000 tấn, trị giá 133 triệu USD, giảm 6% về lượng và giảm 1,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.
Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 8/2021, ước đạt 1.700 USD/tấn, tăng 3,4% so với tháng 8/2020. Trong 8 tháng đầu năm 2021, giá chè xuất khẩu bình quân đạt 1.666 USD/tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính chung trong 7 tháng đầu năm 2021, mặc dù lượng chè xuất khẩu giảm, nhưng trị giá xuất khẩu vẫn tăng do giá chè tăng. Đáng chú ý, lượng và trị giá chè xuất khẩu sang các thị trường vẫn tăng trưởng khả quan trong 7 tháng đầu năm 2021.
Dẫn đầu là thị trường Pakistan đạt 21.500 tấn, trị gái 42,1 triệu USD, tăng 11% về lượng và tăng 14,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.
Tiếp theo là thị trường Đài Loan đạt 10.400 tấn, trị giá 16 triệu USD, tăng gần 13% về lượng và tăng 11% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Lượng chè xuất khẩu sang hai thị trường này chiếm 45,8% tổng lượng chè xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm 2021.
Thị trường Nga đứng thứ 3 đạt 6.501 tấn, tương đương 10,33 triệu USD, giá 1.589 USD/tấn, giảm 11,8% về lượng, giảm 7% kim ngạch nhưng tăng 5,5% về giá so với cùng kỳ, chiếm 11% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu chè của cả nước.
Xuất khẩu chè sang các thị trường như Indonesia, Ả rập Xê út giảm mạnh cả về lượng và trị giá trong 7 tháng đầu năm 2021.
Lượng xuất khẩu chè sang các thị trường Iraq, Ấn Độ và Philippines chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng chè xuất khẩu. Thị trường đáng chú ý là Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm 2021 có mức tăng mạnh 55% về lượng, tăng 59% về kim ngạch và giá tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 5.405 tấn, tương đương 8,39 triệu USD, giá 1.552,4 USD/tấn; chiếm 9% trong tổng lượng và tổng kim ngạch.