"Đặc trưng lớn nhất trong bữa ăn của người miền Tây là sự đơn giản và dân dã. Người miền Tây chỉ cần một món chính ví dụ như một con cá kho, một chảo kho quẹt, một thố mắm kho, rồi đứng dậy ra sau hè (sau vườn) hái thêm ít rau ghém mọc dại là đủ", chị Đào Thị Mai Thuông (ĐH Văn hoá TP.HCM) đã từng chia sẻ như vậy về thói ăn uống của người miền Tây Nam Bộ.
Nhiều người cũng đồng tình với ý kiến này và cho rằng người miền Tây ăn rất đơn giản, kể cả mớ rau dại ngoài đồng cũng có thể ăn với lẩu. Thông thường, khi nước lẩu sôi, họ thường cho tất cả nguyên liệu vào chứ không cầu kỳ phân loại từng món như những nơi khác.
Nồi lẩu chuẩn miền Tây phải có “rau rác” để ăn ghém
Mặc dù chỉ là món ăn phụ nhưng rau ghém và cách thưởng thức này sẽ quyết định 30% độ ngon của nồi lẩu. Rau ghém ở miền Tây ngoài mồng tơi, rau muống, cải ngọt, cải bẹ xanh, cải cúc, cải ngồng, đọt bí,... còn có các loại rau mọc dại ngoài vườn, ngoài bờ sông, bờ kè,...
Ngoài ra, người miền Tây còn sử dụng rất nhiều nguyên liệu khác như đắng đất, nhãn lồng, rau càng cua, rau trai, rau dừa, rau ngổ, rau dệu, hay kể cả bông súng, bông điên điển, đọt lang, đọt choại, năn, kèo nèo, bồn bồn,... để nhúng lẩu. Vậy, điều gì đã khiến họ tin vào những thứ "rau rác" dại mọc ven bờ mà không nhờ vào sự phát hiện của ai đi trước?
Đối với người miền Tây rau là thứ hoàn toàn dễ tìm thấy ở ngoài bờ sông, dọc đường hay sau nhà và giá thành cũng rất rẻ thậm chí có khi chẳng tốn đồng nào để mua, nên "rau rác" cũng từ đó được áp dụng vào cách nói chuyện đời thường. Cách chọn lựa nguyên liệu này phần nào thể hiện sự phóng khoáng trong nền ẩm thực độc đáo của người miền Tây.
Tuy nhiên, không phải cứ loại rau dại nào người miền Tây cũng cho vào trong lẩu, giống như chị Đào Thị Mai Thuông (ĐH Văn hoá TP.HCM) vắn tắt dưới đây về các loại rau dại để ăn lẩu:
"Đối với các loại như đọt choại, bông điên điển, rau nhút nhúng lẩu, thường chỉ hái được buổi sáng hừng đông, buổi chiều rau héo, không còn chất dinh dưỡng, ăn vào mất ngon mà dai. Bởi vậy các bà trong quê chỉ thường hái rau bán vào buổi sáng. Người miền Tây cũng hay xem con nước để lựa rau rừng, mùa nào nước lên rau xanh mơn mởn, ngược lại ngắt ngang đọt cũng thấy rau già khú đế".
Người miền Tây có thể ăn lẩu suốt 7 ngày trong tuần
Người miền Tây rất hay ăn lẩu! Khi có cơ hội sum họp, họ luôn chọn lẩu làm món chính mang tính gắn kết các thành viên trong nhà. Thậm chí họ có thể ăn lẩu hằng ngày mà chẳng cần chờ đến một dịp đặc biệt nào.
Nồi lẩu cộng thêm một chiếc bếp gas cỡ nhỏ, người trong một nhà ngồi bệt xuống nền gạch, bày ra nào cá, tôm, rau sống, không thể thiếu chén nước mắm cá linh huyền thoại. Nếu là quyến thuộc thì trải chiếu dưới gốc cây sau nhà, chụm 3 chụm 5 rôm rả chuyện trên trời dưới đất. Dân dã là thế nhưng khi nhà có đám tiệc, dù vẫn nồi lẩu ấy nhưng cách bày biện lại chỉn chu, như một đãi đằng lịch sự.
Khi khách vào bàn thì người nhà xởi lởi, người trên tay vá múc canh liên tục trụng rau vào trong nồi lẩu đang sôi ùng ục. Bên kia bàn chắc chắn một người khác cũng nhanh nhảu đứng lên, lấy đĩa cá nghiêng nhẹ vào trong nồi lẩu rồi dùng chiếc vá nhấn cá xuống bên dưới tầng nước lẩu vừa sôi.
Nói về việc người miền Tây yêu thích việc ăn lẩu, ở một góc khác họ còn xem lẩu như món xả "xà bần" trong tủ lạnh. Chẳng hạn như cuối tuần, trong tủ còn mỗi một đoạn đầu cá hú, họ chỉ cần bắt nồi nước lẩu, hái thêm trái dừa, vặt thêm chút rau rừng sau vườn, cuối cùng sấy chút ít tỏi phi để lên trên, thế là thành ra một nồi lẩu cá.
Một số món lẩu đặc trưng của người miền Tây
Đi miền Tây “du hí” mà bỏ quên những món ăn này thì chuyến đi sẽ thật thiếu sót đó!
1. Lẩu cù lao
Tuỳ theo sản vật địa phương mà mỗi nơi sẽ có một phong vị của lẩu ngọt. Chẳng hạn như lẩu ngọt ở xứ Cà Mau, thể nào cũng có tôm, cua, mực còn lẩu ngọt vùng An Giang thế nào cũng có cá linh non, cá hú, thịt gà, vịt... Nước lẩu cũng tuỳ nơi, có nơi nấu ngọt có nơi nấu chua cay.
Nhưng dù là theo cách biến tấu nào thì những món bất biến trong nồi lẩu ngọt như tim - gan - thịt - phèo lợn, chả cá, cà rốt, hành tây, hành lá tỉa... ốp lên trên bề mặt lẩu là không được thiếu.
Chỉ có người miền Tây mới biết, điểm khiến lẩu cù lao khác biệt với những nồi lẩu bình thường ngoài hương vị còn là nhờ vào cách dùng than. Than dùng ở giữa nồi phải là than cây đước loại đầm, ít trọ, được "khè" hồng 70%. Nhớ đám tiệc, mâm 10 người quây quần bên chiếc lẩu cù lao, thi thoảng nó "thở" ra những tia lửa hồng, bập bùng theo từng đầu đũa.
2. Lẩu cá kèo
Cá kèo là thuỷ sản đặc trưng của dọc kênh rạch vùng Nam Bộ. So với các món ăn nổi bật đất Nam, lẩu cá kèo được xếp vào dạng khiến bao thực khách vấn vương lần đầu thưởng thức.
Nước lẩu cá kèo tuỳ nhà mà có một phong vị khác nhau. Nhưng cơ bản nhất, nước dùng phải đệm chút vị cay để một phần khử mùi tanh của cá, một phần kích thích vị giác. Có nhà tận dụng me pha nên một nồi nước dùng chua, cay. Một thứ mà nồi nước lẩu cá kèo tuyệt đối cũng không thể thiếu là tỏi phi. Trụng cá kèo vào nước lẩu đang sôi ùng ục, cho thêm chút chuối ghém thái sợi, kèo nèo, bông súng,...
3. Lẩu mắm
Tuy qua rồi thời buổi nguy nan nhưng những bữa ăn ghi đậm dấu ấn thời khẩn hoang vẫn được người miền Tây lưu truyền, tiêu biểu ngoài mắm kho, mắm sống, họ còn làm ra món lẩu mắm từ việc "ninh cốt mắm".
Phải là cốt mắm cá sặc, mắm cá linh và mắm cá trèn thì mới ra nồi lẩu mắm miền Tây. Đồ tươi bỏ lẩu ngoài cá hú, cá basa hoặc cá phi còn có ba rọi tỉ lệ nạc 6 mỡ 4, tôm, mực… Nồi lẩu cũng phải buộc bỏ thêm cà tím, và sả băm phi cháy kèm chút tỏi để đệm thêm dư vị. Thứ rau ăn kèm là bông súng, cù nèo, rau nhút,... Đặc biệt, không thể bỏ qua rau đắng, sự xuất hiện của rau đắng trong nồi lẩu mắm miền Tây chính là lời khẳng định họ sành ăn như thế nào.
Rau đắng trấn vị mằn mặn của nước cốt mắm, để lại hậu ngọt dai dẳng trong họng. Lấy một ít bún tươi cho vào trong chén, thêm nước lẩu, vài miếng thịt, cá kèm rau đắng vừa trụng còn nóng, ăn đúng bài bản một lần là nhớ cả đời.
4. Lẩu vịt nấu chao
Ở miền Tây, vịt nấu chao Cần Thơ là nổi danh nhất. Để vịt nấu chao ngon đúng điệu người miền Tây thường ưu tiên chọn vịt xiêm thay vì vịt cỏ.
Vịt được chà gừng với rượu, làm sạch và chặt nhỏ trước khi ướp với chao. Khoai môn người ta chọn loại dẻo, thêm nấm rơm cắt đôi, chỉn chu hơn nữa thì chuẩn bị thêm ít huyết lợn. Quan trọng không kém thịt vịt là chao, theo người miền Tây, chao càng lâu càng đậm vị (tất nhiên còn hạn sử dụng), nấu lẩu càng ngon.
5. Lẩu cá linh bông điên điển
Cá linh và bông điên điển là "cặp bài trùng", là đơn cử xuất sắc trong việc kết hợp đặc sản địa phương lại với nhau của người miền Tây. Lẩu cá linh bông điên điển có vị hao hao canh chua. Nhiều gia đình dùng cơm mẻ hoặc dấm làm nước lẩu nhưng một số khác lại chọn me. Thật ra, cách nấu nào cũng đúng, tuỳ theo sở thích của mỗi nhà.
Nồi lẩu cá sôi ùng ục nhưng dại gì mà cho bông điên điển vào ngay, phải đợi khi cả nhà túm tụm lại ăn, ngồi quây quầng bên nhau. Vừa ăn, vừa nhúng bông điên điển vào nước dùng để giữ độ giòn và thơm của bông. Tất nhiên một thứ rau đêm không thể thiếu trong món lẩu này là ngò gai, tỏi sấy. Nước chấm phải là nước mắm nguyên chất, có thêm chút ớt hoặc tiêu để điều vị.
6. Lẩu cháo cá lóc
Lẩu cháo cá lóc là biến tấu của món cháo cá lóc ở xứ Mỹ Tho, Tiền Giang. Thay vì đơn giản là ăn cháo cá lóc, người miền Tây cho đun cháo liu riu trên bếp để nước lẩu luôn ấm nóng. Mục đích của sự sáng tạo này là để... người ta ăn được nhiều rau đắng đất trụng.
Có thể nói rằng, món lẩu cháo này mất đi 50% hương vị nếu thiếu rau đắng đất. Đĩa rau đắng đất trụng lẩu cháo đắng đất tuy đắng đến tê đầu lưỡi nhưng hậu lại ngọt và thơm vô tận.
Ngoài ra, phải thêm tiêu vào nước lẩu để thấy dư vị đệm của tiêu khi kết hợp với lẩu cháo tinh tế đến mức nào. Theo một số người sành ăn, tiêu còn giúp vị lẩu cháo có hậu ngọt, giải cảm cực kỳ hữu hiệu.